Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Tổ chức cơ sở đảng trựcthuộc đảng bộ khối cơ quan và doanh nghiệp tỉnh theo tinh thần nghị quyết Đại hội XIII của đảng

1. Nhận thức sâu sắc lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”([1]), trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng việc xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Với vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp triển khai đường lối, chủ trương và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng như: kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra đánh giá đảng viên; nơi thực hiện thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng; nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Chất lượng tổ chức cơ sở đảng do đó ảnh hưởng lớn tới chất lượng nội bộ Đảng. Tổ chức cơ sở đảng còn là tổ chức cầu nối Đảng với Nhân dân, là mắt - khâu trọng yếu để duy trì mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân. Với vị trí, vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ sở đảng tuy là một bộ phận trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nhưng là tổ chức lãnh đạo tất cả các tổ chức khác trong hệ thống chính trị đó, là tổ chức bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đường hướng chính trị của Đảng. Vì thế, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là yếu tố cực kỳ quan trọng, quyết định đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo và sự sống còn của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng; là quy luật tất yếu trong suốt quá trình tồn tại, trưởng thành, phát triển của Đảng và là một nội dung trọng tâm, then chốt trong đổi mới chỉnh đốn Đảng hiện nay. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định, trong những năm tới “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức cơ sở đảng trong việc giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ ([2]).

2. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh là khả năng, mức độ, kết quả của tổ chức cơ sở đảng đạt được khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình hay nói cách khác năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là khả năng đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị đúng đắn, sát hợp với từng loại hình tổ chức cơ sở đảng trong từng thời kỳ, đồng thời là khả năng tổ chức thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đó ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp...Bám sát phương thức lãnh đạo của Đảng, theo chúng tôi năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở các nội dung: i) Khả năng bao quát, định hướng: thực chất là khả năng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt và thảo luận xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng. Ở khâu này, đòi hỏi đảng ủy cơ sở nhất là người đứng đầu phải nghiên cứu nắm vững các quan điểm mới, các nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá…của Nghị quyết; đồng thời trên cơ sở học tập, bám sát định hướng đề cương nghiên cứu, kế thừa những cách thức quán triệt của cấp ủy cấp trên, lựa chọn các hình thức phù hợp, sáng tạo (học tập, tọa đàm, hỏi đáp, thi tìm hiểu…). Phương châm quán triệt: Rõ hơn về điểm mới, sát với đối tượng, phù hợp với thực tiễn. Đồng thời phát huy dân chủ, tổ chức thảo luận, rà soát, bổ sung các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp…thống nhất ban hành chương hành động thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng các cấp của Đảng bộ. Yêu cầu chung về chương trình hành động phải đảm bảo: đúng định hướng nhưng phù hợp với thực tiễn; đảm bảo tính toàn diện song phải có trọng tâm, trọng điểm; vừa tập trung giải quyết vấn đề trước mắt song phải chú trọng lợi ích, hiệu quả lâu dài. Theo đó, chương trình hành động có tính khả thi phải rõ: Rõ về mục tiêu, chỉ tiêu; rõ về nội dung, cách thức; rõ về điều kiện, nguồn lực; rõ về trách nhiệm tổ chức thực hiện. Qua đó, tạo sự thống nhất cao về nhận thức, khơi dậy khát vọng và ý chí vươn lên của cán bộ, đảng viên, người lao động tạo tiền đề quan trọng để toàn Đảng bộ quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt thực hiện thắng lợi Nghị quyết. ii) khả năng kết nối, phát huy nguồn lực: thực chất đây là khả năng lãnh đạo, chỉ đạo hiện thực hóa và cụ thể hóa kế hoạch, chương trình hành động thành phong trào thi đua yêu nước ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Theo đó, tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo, phối hợp với lãnh đạo cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp kịp thời cụ thể hóa chương trình, kế hoạch hành động… thành các cơ chế kích cầu, các quy chế, quy định, các chương trình, đề án, dự án, kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện; lãnh đạo các tổ chức đoàn thể trong công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng các mô hình, điển hình phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… vừa phát huy, đồng hành và chăm lo đến lợi ích của cán bộ, đảng viên, người lao động. Chức năng cơ bản của khâu này là sự “kết nối” giữa các lực lượng. Bởi vậy, để tổ chức triển khai có hiệu quả, phát huy được sức mạnh, sự chủ động và sáng tạo của cả hệ thống đòi hỏi công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy phải rõ về cơ chế phối hợp theo phương châm: Rõ việc; rõ chủ thể (chủ trì, phối hợp); rõ về điều kiện, thời gian; rõ về phương pháp, cách thức, quy trình; rõ về mô hình, sản phẩm. iii) khả năng điều chỉnh, thích ứng: khả năng lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện kịp thời, điều chỉnh chỉ tiêu, nhiệm vụ cho phù hợp với thực tiễn. Tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng là quá trình lâu dài liên quan đến nhiều yếu tố, nhiều lĩnh vực, để thực hiện thành công đòi hỏi đảng ủy cơ sở nhất là người đứng đầu phải thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát. Qua kiểm tra, giám sát để phát hiện những yếu tố không phù hợp, thậm chí là sai lệch, từ đó kịp thời điều chỉnh đúng định hướng, phù hợp thực tiễn, đem lại kết quả cao. Để làm tốt khâu này đòi hỏi các cấp ủy đảng phải có năng lực vừa bao quát mọi người, mọi việc vừa sâu sát, cụ thể đến từng người, từng việc với phương châm: phải đến tận chỗ, rõ tận việc, thường xuyên kiểm tra, kịp thời điều chỉnh. iv) khả năng thúc đẩy đổi mới, sáng tạo: khả năng lãnh đạo, chỉ đạo công tác sơ kết, tổng kết thực hiện Nghị quyết. Nội dung sơ kết, tổng kết là đánh giá những kết quả đạt được trong lãnh đạo, chỉ đạo; những hạn chế tồn tại, nguyên nhân và kinh nghiệm. Yêu cầu trong đánh giá sơ kết, tổng kết phải khách quan, toàn diện; lịch sử, cụ thể và thực tiễn tránh biểu hiện chung chung, hình thức nặng về thành tích, coi nhẹ những hạn chế, tồn tại. Mục tiêu chính của khâu này là thông qua đánh giá để khẳng định được thành tích, kết quả, những mô hình hay, cách làm hiệu quả; rút ra được những kinh nghiệm quý của thành công và thất bại để có giải pháp vừa khắc phục những hạn chế vừa phát huy được những thành tích, coi trọng tổng kết thực tiễn để hoàn thiện, phát triển lý luận thúc đẩy sự phát triển toàn diện ở địa phương. Như vậy, năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh là tổng hợp và cộng hưởng các khả năng của tổ chức cơ sở đảng một trong việc định hướng, dẫn dắt, huy động, phối hợp tối đa các nguồn lực để tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. 

Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; là sự kiên định, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động; kỷ cương, kỷ luật về đội ngũ; thực sự trong sạch về đạo đức, lối sống; gắn bó máu thịt với Nhân dân, tạo nên sức mạnh, sức bền nội tại của tổ chức cơ sở đảng, là ý chí vượt lên trong mọi hoàn cảnh để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, là khả năng đấu tranh kiên định và hiệu quả với mọi thế lực thù địch trên các lĩnh vực, bảo vệ trong sạch nội bộ, là tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, là sự gắn kết Đảng với quần chúng và uy tín của Đảng trong quần chúng. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng có thể khái quát ở những nội dung cơ bản sau: i) Sức kiên định: Thể hiện ở sự kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; ii) Sức nhận biết: là khả năng nhận biết âm mưu, thủ đoạn, các quan điểm sai trái, thù địch; khả năng nhận biết những hạn chế, khuyết điểm thậm chí là sai lầm của tổ chức đảng; khả năng nhận biết được những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. iii) Sức khắc phục: là khả năng khắc phục những hạn chế, tiêu cực, sai trái trong Đảng, chính quyền, đoàn thể, trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân; ở tinh thần đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái mới tiến bộ, phê phán, loại bỏ cái cũ, lạc hậu; khả năng nhạy bén trong việc nắm bắt tình hình, tính kịp thời trong phát hiện và kiên quyết đấu tranh đập tan mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi tư tưởng, quan điểm lệch lạc, phản động, mọi hành động sai trái để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; iv) Sức tự phê bình và phê bình: là khả năng nhận diện những hạn chế của bản thân và đồng chí, tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ được giao; thật thà, thẳng thắn, khách quan, trung thực trong phê bình với mục đích nhằm giúp nhau tiến bộ và dựa trên tình đồng chí và thương yêu lẫn nhau. Đây cũng là cơ sở để ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, góp phần làm trong sạch tổ chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ngang tầm nhiệm vụ. v) Sức tự chỉnh đốn, tự đổi mới: là khả năng nghiên cứu lý luận, phát triển trí tuệ, tư duy, tầm nhìn của mỗi tổ chức đảng và đảng viên; khả năng tổng kết thực tiễn để khái quát hóa thành chủ trương, nghị quyết;... từ đó định hướng cho hoạt động thực tiễn đúng quy luật, phù hợp với thực tế của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; khả năng đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, nâng cao khả năng thích nghi với quá trình thay đổi của bối cảnh mới, tình hình mới.

 Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh là hai mặt của một vấn đề, là hai thành tố gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau. Năng lực lãnh đạo tốt là điều kiện để sức chiến đấu được phát huy, sức chiến đấu cao tạo cơ sở vững chắc để năng lực lãnh đạo được tăng cường.

3. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh thực chất là tổng thể các biện pháp, cách thức nhằm nâng cao khả năng của tổ chức cơ sở đảng trong việc thực hiện các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn. Nâng cao trình độ giác ngộ cao, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trước mọi biến động của tình hình chính trị - xã hội; nâng cao khả năng khắc phục những biểu hiện tiêu cực, sai trái, những hạn chế, khuyết điểm của bản thân tổ chức cơ sở đảng và của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; khả năng nhạy bén về chính trị và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm, hành động thù địch, ngăn chặn tác động tiêu cực từ bên ngoài của cán bộ, đảng viên…

          Thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy; sự phối hợp, hướng dẫn của các Ban của Tỉnh ủy; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh được nâng lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, đó là: i) Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên ở một số tổ chức cơ sở đảng chưa thường xuyên, liên tục; một số cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, đạo đức, lối sống đến mức phải kỷ luật. Công tác dự báo, nắm bắt dự luận xã hội, bức xúc của nhân dân ở một số nơi chưa kịp thời. ii) Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của cấp ủy cấp trên, ở một số tổ chức cơ sở đảng, chi bộ còn hạn chế. Phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, chi bộ đối với hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội một số nơi còn hạn chế. iii) Chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ một số nơi chậm được đổi mới; việc phân công cấp ủy viên về dự sinh hoạt chi bộ thực hiện chưa nghiêm túc. Tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ có lúc, có nơi chưa tốt, còn nể nang, né tránh. iv) Công tác củng cố, xây dựng tổ chức đảng, các đoàn thể chính trị- xã hội và phát triển đảng viên trong doanh nghiệp và kết nạp đảng viên là chủ doanh nghiệp còn hạn chế…

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh trong thời gian tới, Bên cạnh việc bám sát phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đề ra trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa; tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện 09 nhóm nhiệm vụ giải pháp được đề ra trong Chương trình số 13- CTr/TU ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025 về “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, tạo chuyển biến rõ nét trong sắp xếp tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ”, theo chúng tôi cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tổ chức nâng cao nhận thức toàn diện, sâu sắc cho cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò và sự cần thiết nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Qua đó, tạo ra sự thống nhất trong nhận thức của cấp ủy các cấp, cán bộ, đảng viên, từ đó thấy được sự cần thiết và có sự quan tâm toàn diện, đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời kỳ mới. Bởi vậy, cấp ủy cấp trên cần định hướng hoàn thiện nhận thức bằng các chủ trương, nghị quyết của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng và yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đồng thời, nâng cao nhận thức thông qua thực tiễn, tổng kết thực tiễn đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.

Thứ hai, tập trung xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Theo đó, cấp ủy các cấp cần đề ra chủ trương, giải pháp giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về phẩm chất, năng lực, phong cách lãnh đạo, phương pháp, tác phong công tác. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng phù hợp với từng loại hình tổ chức cơ sơ đảng trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng về công tác xây dựng Đảng cho bí thư, cấp ủy viên các cấp. Đồng thời, quán triệt, lãnh đạo thực hiện nghiêm việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với từng đối tượng. Tiến hành tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.       

Thứ ba, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng. Theo đó, từng cấp ủy cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt quy chế làm việc, quy chế dân chủ… Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá nhân, có sự phân công, phân cấp cụ thể, không chồng chéo giữa công tác lãnh đạo của cấp ủy với sự quản lý, điều hành của chuyên môn, giải quyết tốt các mối quan hệ, nhất là giữa tập thể cấp ủy với lãnh đạo chuyên môn ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; tập trung khắc phục các biểu hiện vi phạm nguyên tắc, chuyên quyền, độc đoán, mất đoàn kết, mất dân chủ trong nội bộ. Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ, đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tính hiệu quả, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng. Các cấp ủy cần chủ động nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, quy định, hướng dẫn của Trung ương, ủy ban kiểm tra cấp trên về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng, cụ thể hóa vào hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp mình bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Nội dung kiểm tra, giám sát: tập trung vào lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sỏ gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI, XII); Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, đứng đầu cơ quan, đơn vị, trong thực hiện quy chế nêu gương và trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Đi sâu kiểm tra về chấp hành nguyên tắc tổ chức tổ chức và hoạt động của Đảng, nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng, về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, những dấu hiệu vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước trong cán bộ và đảng viên. Qua kiểm tra, cần xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm, làm cho tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ, trong đó lấy cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn là chính. Giữ vững các nguyên tắc của Đảng, coi trọng chứng cứ, không suy diễn, không áp đặt, không thành kiến. Duy trì nghiêm chế độ kiểm tra, kết hợp chặt chẽ kiểm tra thường xuyên, định kỳ theo kế hoạch và kiểm tra đột xuất; giữa kiểm tra và giám sát; kiểm tra với nhận xét, đánh giá, phân loại cán bộ, đảng viên và giáo dục chính trị tư tưởng, xử lý kỷ luật.

Thứ năm, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng. Đổi mới, tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của cấp trên tho phương châm: hướng mạnh tới cơ sở, lấy sự chuyển động của tổ chức cơ sở đảng để làm thước đo công tác xây dựng Đảng. Cấp uỷ cấp trên cần xây dựng chế độ công tác, chương trình cụ thể và phân công cấp uỷ viên bám sát cơ sở, làm việc tại cơ sở. Tập trung chỉ đạo củng cố các đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở yếu kém. Tăng cường tổng kết thực tiễn và phổ biến kinh nghiệm của các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

 

                                                      TS. Lương Trọng Thành

                                                        TUV, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh

 



([1]). Hồ Chí Minh  Toàn tập, tập 15, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 113.

([2]). Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQGST, Tr. 185-186

Truy cập
Hôm nay:
215
Hôm qua:
1570
Tuần này:
14390
Tháng này:
31170
Tất cả:
2546206